Truyện ngắn
NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT CỦA MẸ

***
Không biết từ bao giờ mà người
ta gọi chị bằng cái biệt danh chị Hai Lệ. Thật ra chị tên thật là Nguyễn Thị Bé
Hai, nhưng vì lúc nào người ta cũng chỉ thấy chị buồn và hay khóc, nên mấy bà
bán hàng chung ở chợ đặt cho chị biệt danh Hai Lệ. Nghe vậy chị cũng chẳng
màng. Bởi thật ra cuộc đời chị gắn liền với chữ lệ. Chị khóc nhiều hơn cười, buồn
nhiều hơn vui. Mấy bà bạn hàng bán chung dường như chưa bao giờ thấy chị cười.
Họ hay nói với nhau: “Con Hai Lệ cứ đưa cái mặt buồn như đưa đám ấy mà bán hàng
ai mà mua.” Ấy vậy mà chị lại có duyên buôn bán. Lúc nào chị cũng bán đắt hơn
người khác, nhiều khi mới hơn 7 giờ sáng chị đã bán sạch trơn. Mấy bà bạn hàng
ghen tị nói bóng nói gió: “Ê có khi nào nó bỏ bùa vô hàng không mày? Chứ tao thấy
gà nó bán có hơn gà của tao đâu. Mà biết sao được bà ơi, nhiều khi Chúa lấy cái
này, Chúa cho cái khác. Mấy bà tặc lưỡi rồi lái qua chuyện khác...”
***
Thì Chúa cho cái này mà lấy cái khác,
nhưng có lẽ cái Chúa lấy đi của chị quá nhiều đó là nước mắt. Từ thời còn con
gái, chị phải tần tảo lo cho cha mẹ và các em. Đến tuổi lấy chồng, chị quen và
yêu một người ngoại đạo. Gia đình ai cũng cản ngăn. Đã vậy, anh là con nhà Đạo
Phật, lại là cháu đích tôn nên ba má anh không cho theo đạo. Gia đình chị lại
ra điều kiện, nếu không theo đạo thì không cưới hỏi gì hết. Chị khóc hết nước mắt,
cuối cùng anh cũng chịu làm phép chuẩn với điều kiện con cái sinh ra sẽ được rửa
tội. Thế nhưng, về sống với anh đã hơn ba năm mà chị vẫn chưa có con. Mẹ chồng
có ý muốn anh bỏ chị để có cháu nối dõi. Chị lại khóc. Mà cũng chẳng biết làm
gì ngoài khóc. Nghe nói ông thánh Giu-se ở ngã tư Bảy Hiền linh lắm nên chị đến
đó xin khấn. Thời may, chị có thai, rồi sinh được thằng con. Để tạ ơn Chúa, chị
đặt cho nó tên Trần Hồng Ân. Thằng nhỏ sinh ra được ông bà nội nuông chiều hết
sức.
***
Sinh con được vài tháng, chị và chồng
phải gửi con cho ông bà nội mà lên Sài gòn tìm kế sinh nhai. Cuộc sống dưới
quê, hai vợ chồng làm không đủ ăn, đủ mặc. Hơn nữa chồng chị mắc chứng bệnh
viêm gan siêu vi B, sức khỏe kém, đi làm được vài ngày phải nghỉ vì sức khỏe
không đảm bảo. Bữa chị khuyên chồng thôi vợ chồng mình làm liều, lên Sài Gòn lập
nghiệp, đặng sau này có ít vốn nuôi con ăn học. Thế là hai vợ chồng ra đi để đứa
nhỏ lại cho ông bà nội nuôi.
***
Thằng Ân ở với ông bà nội, đạo Phật,
nên chẳng biết Chúa, Mẹ là ai, lâu lâu lại theo nội đi cúng chùa. Vài ba tháng
ba mẹ cũng về thăm một lần, nhưng bấy nhiêu là chưa đủ với một đứa trẻ đang tuổi
ăn tuổi lớn. Học hết lớp 5, nó nghe theo chúng bạn trốn học đi bụi đời. Bà nội
đi tìm, mang về nhà, được vài ba bữa nó lại đi.
Chị Hai Lệ và chồng rất lo cho con
nhưng vì ở xa, lại bận bịu công việc nên không biết phải như thế nào. Túng thế
quá, mà cũng không muốn con lêu lổng hư người nên anh chị rước nó lên Sài Gòn ở
cùng với anh chị. Thế nhưng, anh chị không ngờ việc đưa con lên Sài Gòn là một
việc làm sai lầm mà sau này cả hai vợ chồng đều hối hận. Nó như cá gặp nước, thằng
Ân mau chóng bị đám bụi đời trong khu nhà trọ lôi kéo. Chẳng mấy chốc nó trở
thành một tay giang hồ có tiếng, chuyên đâm thuê chém mướn. Chị Hai Lệ bán gà
ngoài chợ, nhiều khi cắt cổ gà còn ớn tay, thế nhưng thằng con của chị lại hoàn
toàn khác mẹ, nó đâm người ta còn dễ hơn chị cắt cổ gà. Nó quen với máu, quen
mùi máu người. Dường như nó nghiện mùi máu người.
Nhiều khi đang bán hàng, chị bị công an mời
lên phường để bảo lãnh cho con, vì nó chưa đủ tuổi vị thành niên. Những lúc như
thế chị chỉ biết khóc và cầu xin với Đức Mẹ ban ơn cho con của chị. Nhưng dường
như Chúa với Đức Mẹ phớt lờ, hay bận bịu ban ơn ở đâu đó mà quên đi nỗi đau của
chị.
***
Khổ với con chưa đặng hay sao mà Chúa lại
tiếp tục mang cái khổ khác đến cho chị. Chồng chị, vì sức khỏe kém, lại không
thể làm ăn gì được nên đâm ra bực bội vì thua kém vợ. Cái sĩ diện của một thằng
đàn ông chuyên ăn bám vợ đã khiến tính nết anh thay đổi nhanh chóng. Đạo nghĩa
anh bỏ bê không nói, đàng này anh nhậu nhẹt liên miên, về nhà thì lấy cớ “con
hư tại mẹ”, tìm cách đánh đập chị. Chị Hai Lệ chỉ còn biết khóc cho thân phận
mình. Nhiều khi đi bán, mắt thâm tím vì đêm qua bị chồng đánh, nhưng chị cứ phải
nói dối mấy bà ngoài chợ: “Lỡ chợt chân té mà!”. Rồi ngoảnh mặt cố né tránh ánh
mắt dòm ngó nghi ngờ của người khác.
***
Đêm đêm chị lại khóc. Khóc vì chồng.
Khóc vì con. Khóc vì thân phận mình. Chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và Đức Mẹ.
Suốt ngày, hễ ngơi ra người ta sẽ thấy chị lần hạt, miệng cứ lẩm bẩm. Tuy vậy,
càng cầu nguyện nhiều, càng đọc kinh nhiều, thì dường như Chúa càng chơi trò
chơi trốn tìm với chị. Với chị, chưa bao giờ nhờ đọc kinh mà chị được an lòng,
được như lòng mong ước dù chỉ là không rơi lệ chỉ một ngày. Phép lạ Chúa có thể
làm ở đâu đó, cho ai đó chứ với chị thì không bao giờ. Nhưng chị không còn cách
nào khác ngoài việc kiên trì cầu nguyện.
***
Rồi một buổi sáng, khi chị đang bán
hàng thì thình lình thằng Ân xuất hiện trước mặt chị, với cái ba lô khoác trên
vai.
- Má con đi đây! Gọn lơ, không chút cảm
xúc.
- Mà con đi đâu? Chị như đứng hình chỉ
còn kịp hỏi lại.
Nhưng câu hỏi của chị không được
thằng Ân đáp ứng. Nó bỏ đi. Chị nghĩ thì nó cũng đã từng đi như vậy. Chỉ về nhà
khi trên người đầy dẫy vết thương, tay chân bê bết máu. Được vài bữa, có khi vết
thương chưa lành nó lại đi. Nhưng lần đi này chị có cảm giác khác lạ. Bởi những
lần trước chưa bao giờ nó từ giã chị. Lần này nó lại chào chị, với ánh mắt đục
mờ, không tương lại, không định hướng. Chị lại khóc, nước mắt ngắn dài. Chỉ còn
lẩm bẩm như thói quen: “Mẹ ơi, cứu lấy con của con, thằng Ân, đứa con mà con cầu
xin mãi mới sinh ra nó, xin Mẹ hãy cứu lấy con của con…” Chị khóc nghẹn ngào đến
nỗi kinh Kính Mừng cũng đọc không ra, cứ nghẹn ngào, rồi nức nở…Mấy bà ngoài chợ
chặc lưỡi: “Lại khóc, tao mà có thằng con như thằng Ân thà tao đẻ trứng rồi ăn
còn sướng hơn. Thủa nào thằng con khốn nạn, không biết thương mẹ là gì…”
***
Đang lim dim nằm trên võng
nghỉ trưa, tay cầm tràng hạt, bỗng chị nghe tiếng thằng Ân thủ thỉ bên tai:
- Má! Con về rồi.
- Tổ cha mà! Mấy năm nay con đi đâu? Nói
chưa dứt câu chị đã khóc.
- Dạ, con đi làm ăn, tính làm lại cuộc đời,
bởi bấy lâu nay đã sống không đúng, làm cho ba má khổ. Nên con quyết định định
thay đổi cuộc đời. Thời may con được các cha giúp đỡ. Các ngài lại tạo điều kiện
cho con học nghề, rồi nhận con đi tu, trở thành tu sĩ. Nay con về, đặng làm giấy
tờ, rồi xin chữ ký của ba má, chấp nhận cho con đi tu.
Nghe con nói mà chị không tin
vào tai mình nữa. Đứa con chị tưởng đã mất, nhưng nay nó lại về. Nó về không những
trở thành một con người khác, mà còn muốn theo Chúa sống đời dâng hiến. Chị ngơ
khác, không hiểu thật hay mơ, hỏi lại:
- Con nói sao? Con đi tu? Con làm lại cuộc
đời? Rồi chị khóc òa lên.
Tiếng khóc của chị những tưởng
như người ta mất mát một cái gì đó lớn lắm trong cuộc đời. Nhưng đây không phải
là mất mát, mà là tìm lại được, gặp lại được, nhận lại được đứa con hoang đàng…
***
Thế rồi cũng đến ngày con chị
được vào Nhà Tập, được mặc áo dòng đen. Chính tay chị may áo cho nó, rồi cũng
chính chị mang áo lên cho con, mà nghẹn ngào sung sướng không thể tả nổi. Chị tạ
ơn Chúa, vậy là Chúa và Mẹ đã nhận lời rồi. Vậy là Chúa và Mẹ chịu làm phép lạ
trên cuộc đời khốn khổ của con rồi. Hai mẹ con ôm nhau ngay trên gian cung
thánh mà khóc nức nở. Thằng Ân mặc cái áo dòng vào, nó cảm nhận cái áo được đan
dệt bằng nước mắt của mẹ nó. Người mà nó đã làm cho khổ cực bao nhiêu lâu nay.
***
Vừa bước xuống khỏi gian cung
thánh, bỗng chị thấy một đám người lạ mặt chạy đến vây kín, chỉ thẳng vào mặt
hai mẹ con chị mà chửi: “Ối giờ ơi! Thằng mất dạy đó mà tu tác gì. Đồ cái quân
đâm thuê chém mướn, đồ quân trộm cướp, che mắt các cha được chứ làm sao mà che
mắt thiên hạ được…Chiếc áo dòng không làm nên thầy tu. Mày tưởng mày mặc áo
dòng vô thì đương nhiên là thầy tu hả. Trên người mày, mặt mũi mày đầy dẫy nào
là thẹo chằng chịt, nào là vết xăm ngang dọc. Có chết cũng không rửa sạch tội lỗi
của mày chứ đừng nói là đổi đời.” Rồi người ta bao vây lấy chị: “Đồ cái thứ đàn
bà, phận làm vợ, làm mẹ mà không biết sống hòa thuận với chồng, không biết nuôi
dạy con…giờ túng đường quá, mới gửi cho các cha, đặng được làm bà cố hả. Không
có đâu, đừng có mơ…”
- Không! Không! Không phải thế, con tôi
đã ăn năn rồi, xin các người cho con tôi cơ hội làm lại cuộc đời.
- Nhìn cái mặt là biết quân ăn cướp, đâm
thuê chém mướn, nó mà tu tác nỗi gì.
- Tôi xin các người, van các người hãy
cho con tôi cơ hội làm lại cuộc đời…
Chị càng van xin, đoàn người
càng ngày càng đông, chỉ chỏ, chửi rủa mẹ con chị, đoàn người mỗi ngày một
đông…chị chỉ còn biết la lên: “Không! Tôi xin các người cho con tôi cơ hội sửa
đổi. Không! Không!...”
- Nè chị! Chị ơi! Chị mơ gì thế - tiếng
cô y tá đánh thức chị Hai Lệ. Chị mơ gì mà vừa khóc vừa la thảm thiết thế. Chắc
chăm con mấy ngày không ngủ nên mệt rồi. Thôi để tôi dìu chị lên giường nằm nghỉ.
- Dạ! Được rồi cô y tá, làm phiền côị
quá, tôi chỉ nằm mơ thôi.
Chị tỉnh giấc, bần thần người
chưa hiểu giấc mơ có ý nghĩa gì.
***
Những ngày thằng Ân nằm viện chồng chị
vẫn sáng xỉn chiều say, chị phải nghỉ chợ ở luôn trong bệnh viện chăm cho thằng
Ân. Nhiều khi chị ngồi bên giường con mà khóc ròng, tay thì cầm tràng hạt cầu
nguyện cho con chị tai qua nạn khỏi. Bữa chị vừa nắm tay con, mắt nhắm rồi lẩm
bẩm lần hạt, bỗng thấy tay thằng Ân động đậy. Chị mở mắt, ánh nhìn đầu tiên chị
thấy con chị, thằng Ân, ánh mắt nó đã không còn mờ đục nữa, nó mấp máy môi:
“Con đang ở đâu đây má?” Chị thấy con tỉnh lại thì vui mừng khôn tả, trả lời
con: “Con bị chìm tàu khi đi chơi ở Biển Nha Trang, người ta cứu con được…con cứ
nằm nghỉ đi…”. Rồi chị chạy vội đi gọi báo cho bác sĩ con chị đã tỉnh lại.
Các bác sĩ cũng vô cùng ngạc nhiên về
tình trạng của thằng Ân. Phần lớn cho rằng nó sẽ không qua khỏi, ấy vậy mà nó lại
tỉnh lại. Bác sĩ cho rằng chỉ có phép lạ xảy ra thôi, chứ chúng tôi đã bó tay.
Chị ôm thằng Ân vào lòng rồi vừa khóc vừa nói: “Con tạ ơn Chúa, tạ ơn Mẹ
Ma-ri-a đã nhận lời con…”
Thằng Ân nhìn thẳng vào mắt mẹ rồi nói:
- Má, con thấy con đi tu, con được làm một
thầy tu. Con được mặc áo dòng đen đẹp lắm má. Áo dòng tay dài, che hết người
con, che tất cả những thương tích trên người con…Con thấy má cười, con thấy má
vui lắm.
Chị Hai Lệ cũng vô cùng ngạc
nhiên với giấc mơ của con. Nó trùng khớp với giấc mơ của chị. Chị lại ôm nó vào
lòng rồi nói:
- Con tỉnh lại là má vui rồi. Chúa và Mẹ
đã cứu con. Tạ ơn Chúa.
Thằng Ân nhìn thẳng vào mắt mẹ
mà nói:
- Má! Trong cơn hoảng loạn, con bỗng nghe
tiếng má nó: “làm dấu Thánh giá đi con!” Thế là con làm dấu rồi chìm nghỉm…Khi
tỉnh lại biết là mình đã được cứu. Chúa đã cứu con phải không má? Con hứa với
má, từ nay con sẽ làm lại từ đầu. Ráng chí thú làm ăn, không giang hồ lêu lổng
nữa…con xin lỗi má. À mà má, có khi nào Chúa gọi con đi tu không má. Sao con mơ
thấy được làm thầy tu…
- Ừ, sao cũng được, miễn là con sống tốt
là má vui rồi.
- Dạ, con hứa với má cho dù con đi tu hay
sống ở đời thì cũng sẽ trở thành người lương thiện, để má không phải khóc nữa…
Hai mẹ con ôm nhau mà khóc,
nước mắt ngắn dài. Bất chợt chồng chị xuất hiện. Anh không nói không rằng, tiến
lại gần hai mẹ con, lấy tay ôm chầm lấy cả hai rồi thỏ thẻ:
- Tất cả là lỗi tại anh đã không sống trọn
trách nhiệm làm chồng làm cha của mình. Anh xin lỗi hai mẹ con…
***
Cũng có câu chuyện nghe cứ như cổ tích
giữa thời hiện đại này. Tin không? Nhưng tôi lại tin, bởi khi nhìn những vết
xăm trên tay Ân, tôi thấy ở đó có cả một quá khứ đen tối, nhưng nhìn vào mắt
em, tôi lại thấy cả một tương lai tươi sáng. Người xưa có câu: “Không có vị
thánh nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương
lai.” Ân còn cả một tương lại.
Em
đến với tôi với ý muốn trở thành một tu sĩ của Chúa. Thật sự tôi cũng chỉ có thể
giúp em trong khả năng của mình. Phần còn lại phụ thuộc hoàn toàn vào em. Không
biết, với kinh nghiệm đổ vỡ của mình, em có thể vượt qua những thử thách mà bất
kì một ai muốn theo Giê-su buộc phải vượt qua hay không? Và liệu rằng người ta
có thể chấp nhận cho một người có quá khứ đen tối đã được đóng dấu vào thân xác
mình bằng những vết theo ngang dọc và những vết xăm chằng chịt. Liệu rằng…có
tương lai nào cho một tội nhân không?
Tuy vậy, những giọt nước mắt của người vợ, người mẹ, cả một đời
vì chồng vì con, sẽ là cách thức cầu nguyện hữu hiệu nhất, và là bệ phóng cho bất
kỳ một tương lai tương sáng nào. Cuối cùng, thế nào đi nữa, thì Chúa cũng sẽ nhận
lời…Tôi xác tín như vậy. Bạn có tin thế không?
Lm. Mar –Aug Bùi Văn Hồng
Phúc, SSS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét